Lịch sử Tứ_Xuyên

Vào khoảng triều nhà Thương, vùng đất Tứ Xuyên đã xuất hiện nước Ba, Thục, đặc biệt là nền văn minh Tam Tinh Đôi (hoặc gọi là nền văn minh đồi Ba Sao), văn minh Kim Sa là đại biểu cho nền văn minh Thục thời xa xưa phát đạt cao độ. Sau khi vương triều Tần thống trị Tứ Xuyên, văn hoá Ba Thục và văn hoá Trung Nguyên hoà trộn lẫn nhau, trở thành một trong những đầu nguồn trọng yếu của văn hoá Trung Hoa, nắm giữ vị trí quan trọng trong lịch sử Trung Quốc.

Nguồn gốc tên đất Tứ Xuyên

Vào khoảng năm Hàm Bình hoàng đế Tống Chân Tông triều Bắc Tống, xuyên hạp lộ (川峡路) là đường phân chia ranh giới hành chính, mà nằm ở vành đai bồn địa Tứ Xuyên ngày nay, bao gồm tổng cộng bốn lộ là Ích Châu lộ, Tử Châu lộ, Lợi Châu lộ và Quỳ Châu lộ, tất cả hợp lại gọi là xuyên hạp tứ lộ (川峡四路), sau này thường gọi tắt là tứ xuyên, tỉnh Tứ Xuyên được đặt tên từ đó. Có cách giải thích khác là cảnh nội Tứ Xuyên thời đó có bốn con sông lớn là sông Dân, sông Đà, sông Gia Lăng, sông Ô, ngày xưa gọi sông (江) là xuyên (川), tỉnh Tứ Xuyên được đặt tên từ đó [3].

Tiên Tần

Trong suốt thời kỳ tiền sử và lịch sử ban đầu của mình, Tứ Xuyên và các vùng phụ cận trong lưu vực Trường Giang là các nôi của các nền văn minh bản địa có thể có niên đại ít nhất từ thế kỷ XV TCN và trùng hợp với những năm cuối của nhà Thương và trong thời nhà Chu ở phía bắc Trung Quốc. Tứ Xuyên đã xuất hiện trong các thư tịch cổ Trung Hoa với cái tên Ba Thục (巴蜀) do kết hợp tên gọi của hai quốc gia cổ trong bồn địa Tứ XuyênBaThục. Lãnh thổ của nước Ba nay là Trùng Khánh, vùng đất đông bộ Tứ Xuyên dọc theo Trường Giang và một số chi lưu của nó, trong khi nước Thục có lãnh thổ tại khu vực Thành Đô cùng các đồng bằng xung quanh và lãnh thổ lân cận ở tây bộ Tứ Xuyên.[4]

Văn vật khai quật tại Tam Tinh Đôi, một đầu đồng lớn với hai mắt lồi ra, được cho là để mô tả Tàm Tùng (蠶叢), người sáng lập nước Cổ Thục
Tứ Xuyên
Tiếng Trung
Bính âm Hán ngữSìchuān [nghe] (trợ giúp·thông tin)
Tiếng Tứ Xuyên PinyinSi4cuan1
La tinhSzechwan or Szechuan
Phiên âm
Tiếng Hán tiêu chuẩn
Bính âm Hán ngữSìchuān [nghe] (trợ giúp·thông tin)
IPA[sɨ̂tʂʰwán]
Tiếng Hán tiêu chuẩn khác
Bính âm Hán ngữ Tứ XuyênSi4cuan1
Tiếng Ngô
La tinh hóasy3tshoe1
Tiếng Khách Gia
La tinh hóaSi-tshôn
Tiếng Quảng Châu
Việt bínhsei3cyun1
Tiếng Mân Nam
Tiếng Mân Tuyền Chương POJSù-chhoan

Sự tồn tại của nước Cổ Thục được ghi lại rất nghèo nàn trong các chính sử của Trung Hoa, song trong Kinh Thư nước Thục được ghi là một đồng minh đã giúp nhà Chu lật đổ được nhà Thương.[5] Các mô tả về nước Thục chủ yếu là pha trộn giữa các câu chuyện thần thoại và truyền thuyết lịch sử, chúng được chép trong các biên niên sử địa phương như Hoa Dương quốc chí (華陽國志) được biên soạn vào thời nhà Tấn,[6][7] với các truyện kể dân gian rằng ông vua Đỗ Vũ (杜宇) đã dạy người dân làm nông nghiệp và đã tự hóa thân thành một con chim cu cu sau khi chết.[8] Khám phá khảo cổ học tại một thôn nhỏ có tên là Tam Tinh Đôi (三星堆) ở huyện Quảng Hán đã đưa ra ánh sáng về sự tồn tại của một nền văn minh phát triển cao với một ngành công nghiệp đồng độc lập tại Tứ Xuyên.[9] Di chỉ này được tin là một thành cổ của nước Cổ Thục, ban đầu nó được một nông dân địa phương phát hiện ra vào năm 1929 và ông ta đã tìm thấy các đồ tạo tác bằng ngọc bích và đá. Các cuộc khai quật do những nhà khảo cổ tiến hành trong khu vực đã mang lại một vài phát hiện có ý nghĩa cho đến năm 1986, khi người ta tìm thấy hai hố cúng tế lớn với các đồ vật bằng đồng đẹp đẽ cũng như các đồ tạo tác bằng ngọc bích, vàng, đất nung và đá.[10] Khám phá này cùng các phát hiện khác tại Tứ Xuyên gây mâu thuẫn với quan niệm truyền thống trong sử sách rằng văn hóa và kỹ thuật của Tứ Xuyên thua kém khi so sánh với nền văn minh tại thung lũng Hoàng Hà.

Nước Ba thường được mô tả là một liên minh lỏng lẻo hoặc là một tập hợp các tù trưởng, bao gồm một số thị tộc độc lập liên kết lỏng lẻo cùng công nhận một vị vua. Các thị tộc người Ba rất đa dạng, bao gồm nhiều sắc tộc. Các bằng chứng khảo cổ cho thấy người Ba dựa chủ yếu vào đánh cá và săn bắn, hoạt động nông nghiệp ở mức độ thấp và không có bằng chứng về thủy lợi. Nước Ba đã liên minh với nước Tần khi Tần đánh Thục. Sau khi Thục bị diệt, Tần ngay lập tức chinh phục đồng minh và bắt vua nước Ba. Ba sau đó trở thành một quận của Tần.

Khu vực Tứ Xuyên thời cổ có niềm tin tôn giáo và thế giới quan riêng biệt. Có các tài nguyên quặng khác nhau. Thêm vào đó, khu vực này cũng thêm phần quan trọng khi nằm trên tuyến đường thương mại giữa thung lũng Hoàng Hà và các quốc gia khác ở phía tây nam, đặc biệt là các nước nay thuộc lãnh thổ Ấn Độ.

Nhà Tần

Sau khi nước Tần tiêu diệt cả hai nước Thục và Ba, các bản văn cùng các thành tựu của hai nước này đều bị Tần phá hủy. Triều đình Tần sáp nhập Thục và Ba thành hai quận của mình, Tần gửi quan chức đến trực tiếp cai trị tại Thục và chủ động khuyến khích dân di cư từ Tần tới Thục. Tuy nhiên đối với Ba, ban đầu Tần vẫn để tầng lớp trên của nước Ba cũ tiếp tục cai trị trực tiếp và không tiến hành cưỡng bách người Tần di cư quy mô lớn đến lãnh thổ Ba, song tầng lớp này về sau đã bị đẩy ra ngoài lề trong một chính sách chia để trị. Tần dường như cũng đã đưa các kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến đến Tứ Xuyên, khiến trình độ nông nghiệp tại đây ngang bằng với thung lũng Hoàng Hà. Tần đã cho xây dựng nên hệ thống thủy lợi Đô Giang Yển vào thế kỷ thứ III TCN trên sông Dân tại Tứ Xuyên. Công trình do thái thú Thục quận Lý Băng (李冰) giám sát thi công và là biểu tượng cho kỹ thuật nông nghiệp vào thời kỳ đó. Công trình này bao gồm một loạt đập nước, nó chuyển hướng dòng chảy từ sông Dân (một chi lưu lớn của Trường Giang) đến các cánh đồng và cũng làm giảm thiệt hại của các trận lũ lụt theo mùa. Việc xây dựng hệ thống thủy lợi này đã khiến sản lượng nông nghiệp của Tứ Xuyên tăng lên rất nhiều, Tứ Xuyên cũng trở thành một nguồn cung lương thảo và binh lính chính cho Tần khi nước này tiến hành các cuộc chiến nhằm thống nhất Trung Quốc.

Trong suốt lịch sử sau đó của Trung Quốc, tầm quan trọng về quân sự của Tứ Xuyên cũng nổi lên ngang bằng với ý nghĩa về thương mại và nông nghiệp. Bồn địa Tứ Xuyên nằm lọt giữa cao nguyên Thanh-Tạng ở phía tây, Tần Lĩnh-Mễ Thương Sơn ở phía bắc, cao nguyên Vân-Quý ở phía nam, phía đông có Tam Hiệp, dãy núi Vu Sơn, và thường có sương mù. Do Trường Giang chảy qua bồn địa và là đầu nguồn so với vùng Hoa TrungHoa Đông, thủy quân có thể dễ dàng từ Tứ Xuyên đi thuyền về hạ du. Do đó, Tứ Xuyên đã trở thành căn cứ của nhiều lực lượng quân sự và cũng là nơi ẩn náu lý tưởng cho những người tị nạn chính trị của các triều đại Trung Quốc.

Thời Hán

Một khuyết (闕), tức cột trụ chạm khắc đá ở cửa, có chiều cao 6 m, nằm ở lăng mộ của Cao Di (高颐) tại Nhã An, được xây vào thời Đông Hán

Giao thời nhà TầnNhà Hán, Hạng Vũ đã phong cho Lưu Bang làm Hán vương, cai trị đất Hán Trung và Ba Thục. Tháng 4 năm 206 TCN, Lưu Bang trở về đất phong, được cấp 3 vạn quân. Theo lời khuyên của Trương Lương, ông đi qua đường sạn đạo xong liền đốt và cắt đứt đường sạn đạo để đề phòng quân chư hầu đánh úp, đồng thời cũng để chứng tỏ cho Hạng Vũ thấy rằng mình không có ý đi về hướng đông. Trong chiến tranh Hán-Sở, vùng Tứ Xuyên không bị ảnh hưởng trực tiếp của chiến loạn và là nơi cung cấp hậu cần trọng yếu cho việc Lưu Bang xưng đế lập nên Nhà Hán.

Thời kỳ đầu Tây Hán, tình hình xã hội, kinh tế, văn hóa của khu vực Tứ Xuyên phát triển nhanh chóng, mức thịnh vượng vượt quá vùng Quan Trung nên được gọi là "Thiên phủ chi quốc", mỹ xưng này vẫn tồn tại đến nay. Những năm Hán Cảnh Đế, Văn Ông (文翁) nhậm chức thái thú Thục quận, đã thiết lập học đường do chính quyền quản lý đầu tiên tại Trung Quốc, "Văn Ông Thạch Thất" (文翁石室), tại Thành Đô, từ đó truyền thống học tập của Tứ Xuyên lên cao, ngang bằng với vùng Tề Lỗ.

Cuối thời Tây Hán, nhân lúc thiên hạ có biến loạn, năm 25, Công Tôn Thuật (公孫述) đã chiếm cứ Ích châu, xưng đế, đặt quốc hiệu là "Thành Gia", lập quốc đô tại Thành Đô. Công Tôn Thuật đặt tên thành trì xây bên khe Cù Đường là "Bạch Đế Thành", cử nhiều binh sĩ phòng thủ. Công Tôn Thuật làm hoàng đế tại Thành Đô được 12 năm thì đến năm 37, Lưu Tú sau khi gây dựng triều Đông Hán ở Trung Nguyên đã đưa quân tấn công Công Tôn Thuật, Công Tôn Thuật chết trong loạn binh. Tổng cộng, Công Tôn Thuật đã thống trị miền tây nam Trung Quốc trong vòng 28 năm. Trong 28 năm ấy, khu vực miền này rất ổn định, không bị chiến loạn Trung Nguyên ảnh hưởng. Trong thời gian làm hoàng đế, Công Tôn Thuật đã phát triển nông nghiệp, xây dựng thủy lợi, đem đến cuộc sống no đủ cho cư dân. Cho nên sau khi Công Tôn Thuật chết, nhân dân địa phương xây dựng "đền Bạch Đế" trong Bạch Đế thành để tưởng nhớ ông.[11]

Cuối thời Đông Hán, cha con Lưu Yên đã cát cứ tại Ích châu. Ích châu bấy giờ do Khước Kiệm làm thứ sử, áp dụng chính sách thuế khoá hà khắc khiến người dân bất mãn. Lưu Yên khi đến Ích châu bèn thực hiện chính sách khoan dung, vỗ về dân chúng và tranh thủ sự ủng hộ của các quý tộc địa phương. Một số quan chức triều đình như Đổng Phù, Triệu Vĩ từ quan theo Lưu Yên vào đất Thục. Ích châu khi đó cai quản 9 quận: Thục quận, Quảng Hán, Kiến Vi, Ba quận (đông Tứ Xuyên), Việt Huề (Tứ Xuyên), Tây Khang, Tường Kha (Quý Châu), Vĩnh Xương (Vân Nam), Ích Châu (Vân Nam). Năm 194, Lưu Yên lâm bệnh và qua đời. Trưởng quan Triệu Vĩ lập Lưu Chương lên làm Ích châu mục. Ích châu tương đối yên ổn trong 20 năm thì bị Lưu Bị đánh chiếm. Lúc đó, ở Ích châu, Lưu Chương có 3 mối lo: thù với Trương Lỗ, sự đe dọa của Tào Tháo và sự chống đối của các thế lực bản địa người Thục vẫn chưa thực sự phục tùng cha con Lưu Chương.[12] Sau đó, Lưu Chương lại sai Pháp Chính sang Kinh châu mời Lưu Bị (người cùng họ) mang quân nhập Xuyên, Lưu Bị coi đây là thời cơ tốt để tiến vào Ích châu. Lưu Bị sau đó đã trở mặt tiến đánh Lưu Chương, cuối cùng chiếm được Thành Đô. Lưu Chương mở cửa thành ra hàng, được Lưu Bị đưa về an trí cùng gia quyến. Quan lại các châu quận của Ích châu đều ngả theo Lưu Bị, chỉ có Hoàng Quyền đóng cửa thành cố thủ. Mãi đến khi Lưu Chương đầu hàng, Hoàng Quyền mới ra quy thuận.

Thời Tam Quốc

Bản đồ Tam Quốc năm 262

Năm 221, sau khi Tào Phi phế Hán Hiến Đế và xưng đế (tức Ngụy Văn Đế), Lưu Bị lên làm hoàng đế, lấy quốc hiệu là Hán với hàm ý kế tục Nhà Hán, đóng đô ở Thành Đô. Tuy nhiên sử thường gọi là nước Thục hoặc Thục Hán, ít khi gọi là nước Hán. Cương vực của Thục Hán bao trùm lên các khu vực Tứ Xuyên, Trùng Khánh, đại bộ phận Vân Nam, toàn bộ Quý Châu và một bộ phận nhỏ ở phía nam Thiểm Tây và Cam Túc. Thục Hán cùng Tào NgụyĐông Ngô hình thành thế đối đầu Tam Quốc. Trước đó, Đông Ngô vào năm 220 đã đánh chiếm Kinh châu và giết chết Quan Vũ; hai thủ hạ của Trương PhiPhạm CươngTrương Đạt đã sát hại Trương Phi rồi sau đó sang hàng Đông Ngô. Vì thế, Lưu Bị sau khi xưng đế đã quyết định thân chinh cầm quân đi đánh Đông Ngô, giao cho thừa tướng Gia Cát Lượng giúp thái tử Lưu Thiện giữ Thành Đô. Tháng 7 năm 211, Lưu Bị hạ lệnh tập trung quân ở Giang châu huyện thuộc Ba quận rồi tiến về Kinh châu. Kết quả là Thục Hán thất bại trước Đông Ngô, Lưu Bị phải lui về Bạch Đế thành rồi mất ở đó. Thất bại trong trận Di Lăng là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử quân sự và chính trị của Thục Hán. Sức quân, sức nước của Thục Hán bộc lộ sự suy yếu rõ ràng; bản thân chính quyền tự xưng là kế thừa ngôi chính thống của nhà Đông Hán bắt đầu đi vào con đường gập ghềnh.[13]

Thái tử Lưu Thiện sau đó lên ngôi hoàng đế Thục Hán, Gia Cát Lượng vẫn làm thừa tướng và đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên trong lúc này ở vùng Nam Trung xảy ra cuộc nổi loạn vũ trang ở Ích Châu quận của một số địa chủ do Ung Khải cầm đầu, những người này đã nổi dậy giết chết quan thái thú do Thục Hán bổ nhiệm. Tiếp đó xảy ra hai cuộc nổi loạn tiếp theo để hưởng ứng là cuộc khởi nghĩa ở Chu Bảo cầm đầu ở Hoàng Bình-Quý Châu và Cao Định ở Tây Xương-Tứ Xuyên. Ung Khải còn sai Mạnh Hoạch tiến hành tuyên truyền trong vùng dân tộc thiểu số ở Nam Trung. Vì thế, đích thân thừa tướng Gia Cát Lượng đã phát đích thân dẫn quân nam chinh. Sau khi giành được thắng lợi ở phương Nam, thừa tướng Gia Cát Lượng tiếp tục dẫn quân Thục thực hiện 5 cuộc Bắc phạt chống Tào Ngụy, song đã không đạt được mục tiêu chiến lược, đều phải lui binh.

Sau cái chết của Gia Cát Lượng, vị trí thừa tướng của Thục Hán lần lượt do Tưởng Uyển, Phí VĩĐổng Doãn đảm nhận. Sau năm 258, triều đình Thục Hán ngày càng bị kiểm soát bởi các hoạn quan và tham nhũng tràn lan mà điển hình là Hoàng Hạo, ngoài ra, còn vì hoàng đế bất tài nhu nhược nên Thục Hán dần suy sụp. Các cuộc chiến tranh với Ngụy khiến binh lực Thục Hán dần hao mòn. Đến mùa đông năm 263, quân Ngụy chiếm được kinh đô Thành Đô của Thành Hán, hoàng đế Lưu Thiện đầu hàng.

Thời Tây Tấn

Sau khi chiếm được đất Thục, nhà Tấn bắt đầu chuẩn bị xâm chiếm Đông Ngô bằng việc xây dựng hạm đội và huấn luyện thủy quân tại Tứ Xuyên dưới quyền Vương Tuấn. Năm 279, khi nhà Tấn tiến hành chiến dịch quyết định tiêu diệt Đông Ngô, các tướng Đỗ Dự, Vương Tuấn của Tấn đã chỉ huy hạm đội từ Tứ Xuyên xuôi dòng Trường Giang tới Kinh Châu. Nhà Tấn sau đó đã chia Ích châu thành ba châu là Lương châu, Ích châu và Ninh châu.[14]

Thời Thành Hán

Sau loạn Bát vương, Tây Tấn suy yếu trầm trọng. Người Đê (hay Chi) vốn ở Quan Trung, vì mất mùa mấy năm, đã kéo hàng chục vạn người vào Thục kiếm sống. Nhà Tấn sai La Thượng (羅尚) vào Thục, ép lưu dân người Đê rời khỏi Ích Châu vào tháng 7 năm 302. Thủ lĩnh người Đê là Lý Đặc xin được gặt mùa xong, tới mùa đông sẽ đi. La Thượng không bằng lòng, mang quân đến đánh đuổi Lý Đặc. Người Đê bèn theo Lý Đặc nổi dậy làm phản. Tuy nhiên, mùa xuân năm 303, Lý Đặc sau một chiến thắng lớn trước La Thượng, đã bất cẩn tin lời thỉnh cầu của La Thượng về việc đình chiến (chống lại lời khuyên của Lý HùngLý Lưu). Sau đó, La Thượng đã tiến hành một cuộc đánh úp và giết chết Lý Đặc. Tàn quân của Lý Đặc lập Lý Lưu làm lãnh đạo mới. Vào mùa đông năm 303, Lý Lưu lâm bệnh và trước khi qua đời ông đã chỉ định Lý Hùng làm người kế vị. Vào đầu năm 304, Lý Hùng chiếm được Thành Đô, đô phủ của Ích Châu, buộc La Thượng phải chạy trốn. Vào mùa đông năm 304, Lý Hùng xưng Thành Đô vương, đến năm 306 thì xưng đế và đặt quốc hiệu là "Thành". Sau đó ngôi vị hoàng đế của nước Thành về tay Lý Ban rồi Lý Kỳ.

Lý Thọ sau khi tiến hành binh biến và tiến về Thành Đô lật đổ Lý Kỳ, đã lên ngôi và cải quốc hiệu từ Thành sang "Hán" và lập một tông miếu mới cho cha ông là Lý Tương và mẹ, tuyệt giao với chế độ mà Lý Hùng đã gây dựng nên. Mùa xuân năm 339, Thánh Hán bị mất Ninh châu, là vùng mà Lý Thọ đã chiếm của Đông Tấn vài năm trước đó. Trong vài năm sau đó, Đông Tấn và Thành Hán tiếp tục giao chiến tại nhiều nơi ở Ninh châu. Lý Thọ cũng áp dụng hình thức cai trị khắc nghiệt và cho bắt đầu xây dựng nhiều công trình, thần dân Thành Hán phải chịu gánh nặng và điều này đã khiến họ suy giảm lòng trung thành với đất nước. Sau khi Lý Thọ chết, Lý Thế lên kế vị, đến mùa đông năm 346, tướng Lý Dịch (李奕) đã nổi loạn và nhanh chóng tiến về Thành Đô, song cuộc nổi loạn đã thất bại. Sau khi đánh bại Lý Dịch, Lý Thế càng trở nên ngạo mạn và lơ là chính sự quốc gia, ông cũng cho thực thi các hình phạt dã man khiến cho người dân mất tin tưởng. Thành Hán cũng bị tổn hại với sự xuất hiện của một bộ lạc được gọi là Lão (獠), chính quyền địa phương không thể kiểm soát người Lão một cách dễ dàng. Quân Đông Tấn do Hoàn Ôn chỉ huy sau đó đã tiêu diệt nước Hán của người Đê vào năm 347.

Thời Đông Tấn

Sau khi Thành Hán bị tiêu diệt, Tứ Xuyên được sáp nhập vào lãnh thổ Đông Tấn. Từ đó, Đông Tấn hoàn toàn kiểm soát được miền Nam Trung Quốc. Tuy nhiên, cũng thời điểm này, Hoàn Ôn bắt đầu độc lập thực tế trong việc ra các quyết định ở các châu phía tây, trong đó có vùng Tứ Xuyên. Năm 373, Tiền Tần đã tấn công, chiếm Lương châu (梁州) và Ích châu. Sau trận Phì Thủy, quân Đông Tấn đã lấy lại được Lương châu và Ích châu.

Tiều Thục

Vào mùa xuân năm 405, quân của Mao Cừ (毛璩) ở Ích Châu bất mãn rằng Mao Cừ đã đưa họ vào các chiến kéo dài chống Hoàn HuyềnHoàn Chấn nên đã nổi loạn, họ ủng hộ tướng Tiều Túng (譙縱) làm lãnh đạo của mình. Quân nổi loạn đánh bại và giết chết Mao Cừ, chiếm Thành Đô, Tiều Túng lập nên nước Tây Thục độc lập ở đây. Tiều Túng sau đã khuất phục làm chư hầu của hoàng đế Diêu Hưng của nước Hậu Tần. Ông cũng bí mật duy trì một mối quan hệ với thứ sử Quảng Châu (廣州, nay là Quảng Đông và Quảng Tây) của Đông Tấn là Lư Tuần. Năm 412, Lưu Dụ cử tướng Chu Linh Thạch (朱齡石) dẫn 2 vạn quân đi đánh Tây Thục, quân Đông Tấn đã tiến theo một tuyến đường khác so với tuyến đường trước đó mà Lưu Kính Tuyên (劉敬先) đã đi. Tiều Túng không dự đoán được điều này nên đã bố trí phòng thủ sai lầm, quân Đông Tấn tiến theo sông Dân rồi bỏ thuyền tiến thẳng đến kinh thành Thành Đô. Tây Thục diệt vong, đất Tứ Xuyên lại về tay Đông Tấn.

Thời Nam-Bắc triều

Năm 420, Lưu Dụ đã ép Tấn Cung Đế thoái vị và nhường ngôi cho mình, lập ra triều Lưu Tống. Năm 432, dưới thời Lưu Tống Văn Đế, căm giận trước sự cai trị tồi của thứ sử Ích châu là Lưu Đạo Tế (劉道濟), người dân Ích Châu đã nổi dậy, dưới sự chỉ huy của Hứa Mục Chi (許穆之), người này đã đổi tên thành Tư Mã Phi Long (司馬飛龍) và tự tuyên bố là một hậu duệ của hoàng tộc nhà Tấn. Lưu Nghĩa Khang đã nhanh chóng đánh bại và giết chết Tư Mã Phi Long, song một sư tăng tên là Trình Đạo Dưỡng (程道養) ngay sau đó đã nổi dậy và đe dọa thủ phủ Thành Đô của Ích Châu, và mặc dù tướng Bùi Phương Minh (裴方明) đã có thể bao vây quân nổi loạn, Trình vẫn còn là một mối đe dọa trong vài năm, ông ta tự xưng tước hiệu là Thục vương. Trong khi chiến dịch đang được tiến hành, người cai trị của Cừu Trì [một nước chư hầu trên danh nghĩa của cả Lưu Tống và Bắc Ngụy] tên là Dương Nan Đương (楊難當) cũng tấn công và chiếm giữ Lương châu vào năm 433. Mùa xuân năm 434, tướng Lưu Tống là Tiêu Tư Thoại (蕭思話) đã đánh bại quân của Dương Nan Đương và tái chiếm Lương châu. Năm 441, Dương Nan Đương không sẵn lòng từ bỏ thèm muốn với Lương Châu và Ích Châu nên đã tấn công Lưu Tống, thất bại, ông phải chạy trốn đến Bắc Ngụy.

Sau khi Lương Vũ Đế mất, miền Nam Trung Quốc trở nên biến loạn. Sau khi Tiêu Luân chết, Thứ sử Ích châu Vũ Lăng Vương Tiêu Kỷ vốn là em thứ 8 của Tiêu Dịch lại trở thành đối tượng mà Dịch tiêu diệt. Từ năm Đại Đồng thứ 3 (537), Tiêu Kỷ được bổ nhiệm làm thứ sử Ích châu. Đến năm 552 đã trấn thủ Lương châu, Ích châu cả thảy hơn 16 năm, có trong tay 4 vạn tinh binh, 8 nghìn con ngựa. Trong thời gian Tiêu Kỷ cai quản Ích châu, kinh tế và quân đội tại đây được củng cố. Thấy Tiêu Kỷ xua quân về Đông, Tiêu Dịch liền sai sứ thần đến Tây Ngụy xin binh đánh Tiêu Kỷ. Tiêu Dịch ra lệnh cho cháu là Nghi Phong hầu Tiêu Tuân, thứ sử Lương Châu (Nam Thiểm Tây) rút khỏi thủ phủ Lương Châu là Nam Trịnh (Hán Trung, Thiểm Tây) và nhường thành Nam Trịnh cho Tây Ngụy. Tây Ngụy liền phái đại quân đánh xuống Lương Châu, chiếm được Ích châu.

Thời Tùy và Đường

Lạc Sơn Đại Phật tại Tứ Xuyên, được xây dựng từ thời Đường mạt

Năm Khai Hoàng thứ 1 (581) thời Tùy Văn Đế, Tứ Xuyên đã được nhập vào bản đồ nhà Tùy, dưới thời Tùy Đường, khu vực Tứ Xuyên có tình hình xã hội ổn định, kinh tế phát triển toàn thịnh; vào thời Trung Đường có thuyết nói là "Dương nhất, Ích nhị". Trong loạn An Sử, Đường Huyền Tông đã chạy đến đất Thục tị nạn. Sau đó, một số hoàng đế Đại Đường cũng nhập Thục tị nạn, như Đường Đức Tông trong loạn Chu Thử (朱泚之乱), Đường Hy Tông trong loạn Hoàng Sào. Vào năm Thiên Bảo thứ 7 (748), Nam Chiếu thống nhất một vùng tây nam bao gồm Vân Nam, Quý Châu, phía nam Tứ Xuyên. Năm 829, Thành Đô đã bị quân Nam Chiếu chiếm đóng; nó đã là một phần thưởng lớn, vì Nam Chiếu nay đã có khả năng chiếm toàn bộ Tứ Xuyên với những cánh đồng màu mỡ. Kiếm Nam tiết độ sứ là Đỗ Nguyên Dĩnh không chuẩn bị trước nên khi quân Nam Chiếu công nhập ngoại thành Thành Đô, đã chạy trốn cùng với tổng cộng hơn mười vạn người và rất nhiều châu báu. Đến Đại Độ Hà, gặp quân Nam Chiếu, người Đường ngảy xuống sông tự vẫn đến 3 phần 10. Điều này là quá đủ với người Hán, họ đã không mất nhiều thời gian để phản công, Đường và Nam Chiếu sau đó ký kết hòa ước. Sau khi không được chấp nhận lời cầu hôn và đánh bại được Thổ Dục Hồn, quân Thổ Phồn của Tùng Tán Can Bố đã thừa cơ tiến đánh Tùng Châu (nay là Tùng Phan, A Bá) thuộc đất Đường và đánh thắng quân Đường ở đây. Khi quân Đường đem quân đến đánh, Tùng Tán Can Bố đã cho người đến giảng hòa.

Thời Ngũ Đại Thập Quốc

Năm 891, Vương Kiến được Nhà Đường phong Tây Xuyên Tiết độ sứ. Khi Nhà Đường suy yếu, ông mở rộng phạm vi quản lý của mình sang phía đông. Ông xưng đế khi Nhà Đường sụp đổ năm 907, không thần phục nhà Hậu Lương, triều đại thay thế Nhà Đường. Quốc đô Tiền Thục là Thành Đô, Tiền Thục có lãnh thổ bao gồm gần như toàn bộ tỉnh Tứ Xuyên, một phần phía nam tỉnh Cam Túc và Sơn Tây, phía tây tỉnh Hồ Bắc và toàn bộ Trùng Khánh. Đến năm 925, Hậu Đường Trang Tông đã sai tướng Quách Sùng Thao mang quân thôn tính Tiền Thục. Mạnh Tri Tường là một trong các tướng lĩnh Hậu Đường lĩnh nhiệm vụ đi chinh phục Tiền Thục. Ông được Hậu Đường Trang Tông phong làm Nam Tứ Xuyên, Thành Đô quân Tiết độ sứ, quản lý vùng đất thuộc Tiền Thục cũ. Sau khi Hậu Đường Minh Tông Lý Tự Nguyên lên ngôi vào năm 926, Mạnh Trí Tường mưu phản Hậu Đường. Hậu Đường Minh Tông bị sự đe dọa của người Khiết Đan phía bắc nên phải an trí Mạnh Tri Tường bằng cách phong ông làm Thục vương. Năm 933, Hậu Đường Minh Tông mất, nhà Hậu Đường suy yếu do mâu thuẫn nội bộ, Mạnh Tri Tường quyết chí cát cứ, tự xưng đế, chính thức lập ra nước Hậu Thục. Nước Hậu Thục kiểm soát vùng đất tương tự nước Tiền Thục trước đây, quốc đô cũng đặt ở Thành Đô. Vùng Tứ Xuyên chỉ phải chịu ảnh hưởng nhỏ của chiến loạn trong thời kỳ này, vì thế đã trở thành vùng phồn hoa nhất tại Trung Quốc lúc đó. Nước Hậu Thục bị Nhà Tống tiêu diệt vào năm 965.

Thời Nhà Tống

"giao tử" được phát hành tại Tứ Xuyên là tiền giấy đầu tiên trên thế giới

Thời Tống Thái Tông. trên địa bàn Xuyên Hiệp Tứ lộ đã phát sinh nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân quy mô nhỏ, như khởi nghĩa Vương Tiểu Ba (王小波) Lý Thuận (李顺); Lý Thuận đã lập ra nước Lý Thục, tồn tại từ tháng 1 đến tháng 5 năm 944. Tuy nhiên, so với các khu vực khác của đất nước, Tứ Xuyên vẫn là vùng yên ổn, kinh tế duy trì phát triển, vẫn nằm ở vị trí dẫn đầu cả nước.

Thời Nam Tống, Tứ Xuyên là hậu phương kháng cự quân Kimquân Mông. Năm Thiên Hi thứ 5 (1021) thời Tống Chân Tông, tại Tứ Xuyên đã phát hành tiền giấy đầu tiên trên thế giới, gọi là "giao tử" (交子).[15][16][17] Vào thời toàn thịnh của Nam Tống, nhân khẩu của Xuyên Hiệp Tứ lộ chiếm 23,6% tổng dân số toàn quốc Nam Tống (năm 1231 có 5,4 triệu hộ), tổng lượng kinh tế chiếm 1/4 của toàn Nam Tống, quân lương chiếm 1/3.

Thời Nhà Nguyên

Năm 1231, Đà Lôi dẫn quân tiến hành cướp phá Hán Trung, Tứ Xuyên, bắt đầu gần một nửa thế kỷ thảm sát, cướp bóc và đốt phá tại Tứ Xuyên. Sau khi quân Mông Cổ hoàn toàn chiếm lĩnh Tứ Xuyên, nhân khẩu suy giảm rõ rệt. Kinh tế và văn hóa Tứ Xuyên bị tàn phá, người dân cơ cực, quay ngược trở lại 1550 năm trước. Năm Chí Nguyên thứ 15 (1278) thời Nguyên Thế Tổ, Tứ Xuyên nhập vào bản đồ Nhà Nguyên, nhân khẩu có 15,5 vạn hộ với khoảng 77,5 vạn người. Về mặt kinh tế, Tứ Xuyên khi đó đội sổ trong số 11 hành tỉnh, song điều này chỉ kéo dài trong vài thập niên.

Thời Nhà Minh

Năm Hồng Vũ thứ 4 (1371) thời Minh Thái Tổ, khu vực Tứ Xuyên được nhập vào bản đồ Nhà Minh. Sau đó, đã có các đợt di dân, đến năm Hồng Vũ thứ 26 (1393), nhân khẩu của Tứ Xuyên thừa tuyên bố chánh sứ ti đã tăng lên 1,34 triệu người. Đến năm Vạn Lịch thứ 6 (1578) thời Minh Thần Tông, nhân khẩu của khu vực Tứ Xuyên thừa tuyên bố chánh sứ ti đã tăng lên 3.102.073 người. Trong những năm này, kinh tế và văn hóa Tứ Xuyên đã khôi phục, Tứ Xuyên một lần nữa lại trở thành một trong những khu vực cường thịnh nhất nước. Tuy nhiên, từ sau những năm Vạn Lịch trở đi, Tứ Xuyên bắt đầu rơi vào trong chiến họa, triều đình Nhà Minh phải mất 10 năm để ứng phó với việc Dương Ứng Long (杨应龙) nhiều lần làm phản rồi lại hàng phục ở Bá châu tại phía nam Tứ Xuyên, cuối cùng Dương Ứng Long đã bị tiêu diệt vào năm 1600. Năm 1621, Xa Sùng Minh (奢崇明) đã phản lại triều Minh, đặt niên hiệu là Thụy Ứng, từng chiếm Trùng Khánh, đánh Thành Đô. Đến năm 1623, nữ danh tướng Tần Lương Ngọc của Nhà Minh đã đánh bại quân Xa Sùng Minh. Cuối cùng, Xa Sùng Minh và thúc thúc là An Bang Ngạn (安邦彦) tử trận vào năm 1629.

Thời Nhà Minh, đã có các công trình kiến trúc lớn được xây dựng tại Tứ Xuyên. Chùa Báo Ân (报恩寺) là một khu phức hợp tu viện được bảo quản tốt, nó được xây dựng trong thời gian giữa 1440 và 1446 dưới thời Minh Anh Tông. Đại Bi điện (大悲殿) còn cất giữ được một tượng Quan Âm nghìn tay bằng gỗ và Hoa Nghiêm điện (华严殿) là một kho chứa với một tủ quay đựng kinh Phật. Các bức họa trên tường, các tác phẩm điêu khắc và các chi tiết khác của chùa là những kiệt tác của thời Nhà Minh.[18]

Đại Tây

Quân khởi nghĩa nông dân cuối thời Minh của Trương Hiến Trung vào năm Sùng Trinh thứ 13 (1640), khi bị Tả Lương Ngọc đánh bại, đã đưa quân nhập Xuyên. Sau đó lại giao chiến với quân của Tả Lương Ngọc song lần này đã thu được chiến thắng. Trương Hiến Trung sau khi tự xưng "Đại Tây vương", kiến lập chính quyền nông dân Đại Tây tại Vũ Xương, lại tiến vào Tứ Xuyên để mưu sự lâu dài. Ngày 4 tháng 7 năm 1644, Trương Hiến Trung mệnh cho Lưu Đình Cử giữ Trùng Khánh, tự mình đưa quân đi đánh thủ phủ của Tứ Xuyên là Thành Đô. Tứ Xuyên tuần phủ Long Văn Quang từ Thuận Khánh đến chi viện Thành Đô, lại điều tổng binh Lưu Trấn Phiên đưa thổ binh vùng phụ cận đến giữ thành. Vào lúc quân Minh tập trung về Thành Đô, Trương Hiến Trung sai bộ hạ giả làm viện binh, chạy bừa vào thành, Long Văn Quang không thể phân biệt được. Ngày 7 tháng 8, nghĩa quân bốn mặt công thành, trong ứng ngoài hợp, trong ba ngày đã phá được thành. Ngày 16 tháng 11 cùng năm, Trương Hiến Trung đã xưng đế tại Thành Đô, đặt quốc hiệu là Đại Tây, đổi niên hiệu là Đại Thuận, lấy Thành Đô làm Tây kinh. Để đáp lại sự kháng cự của giới tinh hoa bản địa, Trương Hiến Trung đã cho thảm sát một lượng lớn cư dân bản địa.[19]

Không lâu sau, tướng lĩnh Nhà Minh là Tằng Anh, Lý Chiêm Xuân, Vu Đại Hải, Vương Tường, Dương Triển, Tào Huân… các nơi nối nhau tụ tập binh mã, tập kích quân đội Đại Tây, giết chết quan viên Đại Tây ở địa phương, gây ra sự uy hiếp rất lớn lên chính quyền Đại Tây. Sau khi quân Thanh nhập quan và Nam Minh diệt vong, Đại Tây phải chống lại cả tàn dư quân đội Nhà Minh và địa chủ vũ trang ở Tứ Xuyên. Đầu năm Đại Thuận thứ 3 (1646), Nhà Thanh phái Túc thân vương Hào Cách làm Tĩnh Viễn đại tướng quân và Ngô Tam Quế thống soái đại quân Mãn Hán tiến đánh quân đội nông dân Đại Tây. Tháng 7, vì muốn lên Thiểm Tây ở phía bắc nhằm chống lại quân Thanh, Trương Hiến Trung quyết định rời bỏ Thành Đô, tuy nhiên, quân khởi nghĩa đã thất bại.

Thời Nhà Thanh

Đinh Bảo Trinh (丁宝桢), tổng đốc Tứ Xuyên, một thành viên trọng yếu của Dương Vụ vận động (洋务运动), tức phong trào Tây hóa

Sau khi Nhà Thanh nhập quan, Tứ Xuyên tiếp tục xảy ra chiến loạn, đến năm Khang Hi thứ 20 (1681) thì mới ổn định. Thời Minh mạt Thanh sơ, do hậu quả của thảm sát cũng như những năm hỗn loạn sau khi người Mãn nhập quan, dân số Tứ Xuyên lại suy giảm mạnh, cần có một lượng người nhập cư lớn từ các tỉnh khác.[20][21] Do đó, triều đình Nhà Thanh từ đời Thuận Trị đến thời Càn Long đã tiến hành vận động di dân trên quy mô lớn đến Tứ Xuyên, sử sách gọi là "Hồ Quảng điền Tứ Xuyên", kéo dài trên 100 năm. Làn sóng di dân đã bù đắp cho Tứ Xuyên một lực lượng lao động lớn, kinh tế cũng được khôi phục, vào thời trung và hậu kỳ Nhà Thanh, kinh tế tỉnh Tứ Xuyên đứng thứ tư cả nước sau Giang Tô, Chiết Giang và Quảng Đông, là một tỉnh kinh tế phát đạt.[22]

Năm Gia Khánh thứ 1 (1796), đã bùng phát đại khởi nghĩa Bạch Liên giáo Xuyên-Sở. Đầu năm 1797, quân khởi nghĩa Tương Dương chia làm 3 đạo tiến vào Tứ Xuyên. Tháng 7, quân khởi nghĩa Tứ Xuyên bị quân Thanh bao vây, quân khởi nghĩa Tương Dương đến kịp giải vây, tại Đông Hương cùng quân khởi nghĩa Tứ Xuyên hội sư. Cuộc khởi nghĩa của Bạch Liên giáo cuối cùng đã thất bại vào năm 1804.

Đến năm 1895, Lý Hồng Chương và đại diện chính phủ Nhật Bản là Ito Hirobumi đã ký kết hiệp ước Shimonoseki, trong đó quy định Trùng Khánh là một cảng thông thương hiệp ước. Từ đó, kinh tế và xã hội của Tứ Xuyên dần dần suy sụp, cũng như bị bán thực dân hóa, chủ nghĩa tư bản dân tộc cũng bắt đầu manh nha tại Tứ Xuyên. Vào những năm 1860, một tướng lĩnh của Thái Bình Thiên QuốcThạch Đạt Khai (石达开) đã dẫn quân nhập Xuyên, sau đó lại nổ ra vụ "Thành Đô giáo án", cùng với khởi nghĩa Nghĩa Hòa đoàn. Bảo Lộ vận động (保路运动) bùng phát tại Tứ Xuyên nhằm chống đối việc triều đình Nhà Thanh định trao quyền kiểm soát đường sắt địa phương cho ngoại quốc cũng là một ngòi nổ của cách mạng Tân Hợi.

Thời Trung Hoa Dân Quốc

Sau khi Nhà Thanh sụp đổ, Thành Đô tuyên bố độc lập, chính thể quân phiệt Tứ Xuyên được thành lập, Bồ Điện Tuấn (蒲殿俊) và Doãn Xương Hành (尹昌衡) lần lượt nhậm chức đô đốc. Đến ngày 11 tháng 3 năm 1912, hai chính thể quân phiệt Thành Đô và Trùng Khánh hợp nhất, thành lập Tứ Xuyên đô đốc phủ của Trung Hoa Dân Quốc. Đến tháng 6 năm 1913, Viên Thế Khải bổ nhiệm Hồ Cảnh Y (胡景伊) làm Tứ Xuyên đô đốc. Ngày 22 tháng 5 năm 1916, Tứ Xuyên đốc quân Trần Hoạn (陈宦) tại Tứ Xuyên đã tuyên bố độc lập, phản đối Viên Thế Khải xưng đế. Tháng 6 năm 1916, sau khi Viên Thế Khải mất, Lê Nguyên Hồng kế nhiệm chức đại tổng thống, đến ngày 6 tháng 7 đã bổ nhiệm Thái Ngạc (蔡锷) làm Tứ Xuyên đốc quân kiêm tỉnh trưởng. Song do bệnh tình xấu đi, đến tháng 9 thì Thái Ngạc rời khỏi Tứ Xuyên đến Nhật Bản trị bệnh. Năm 1918, Hùng Khắc Vũ (熊克武) đã tự bổ nhiệm mình làm Tứ Xuyên tĩnh quốc quân tổng tư lệnh, cai quản cả lĩnh vực quân sự và dân chính của tỉnh Tứ Xuyên. Tháng 4 năm 1919, Tứ Xuyên phòng khu chế được hình thành, các quân phiệt cát cứ các phòng khu, hỗn chiến với nhau trong gần 15 năm sau đó. Trong đó, tám phái hệ quân phiệt chủ yếu là của Lưu Tương (刘湘), Lưu Văn Huy (刘文辉), Đặng Tích Hầu (邓锡侯), Điền Tụng Nghiêu (田颂尧), Dương Sâm (杨森), Lý Gia Ngọc (李家钰), La Trạch Châu (罗泽洲) và Lưu Tồn Hậu (刘存厚). Tháng 6 năm 1921, Hùng Khắc Vũ từ chức, Lưu Tương kế nhiệm làm Xuyên quân tổng tư lệnh kiêm Tứ Xuyên tỉnh tưởng. Năm 1924, Lưu Tương nhậm chức Xuyên Điền biên phòng đốc biện, Tứ Xuyên thiện hậu đốc biện. Năm 1929, chính phủ Quốc dân phong cho Lưu Văn Huy làm chủ tịch chính phủ tỉnh Tứ Xuyên. Năm 1932, Lưu Tương và Lưu Văn Huy giao chiến. Năm 1933, Lưu Tương đón Tưởng Giới Thạch nhập Xuyên để bình loạn. Tháng 12 năm 1934, Lưu Tương nhậm chức chủ tịch tỉnh Tứ Xuyên, chủ nhiệm văn phòng chính quyền bình định Xuyên-Khang. Lưu Văn Huy về sau nhậm chức chủ tịch tỉnh Tây Khang, một tỉnh được thành lập năm 1939 với lãnh thổ nay thuộc đông bộ khu tự trị Tây Tạng và tây bộ Tứ Xuyên, dân cư bao gồm người Di, người Tạng và người Khương.

Năm 1930, quân Tây Tạng của Đạt-lại Lạt-ma thứ 13 đã chiếm được Garzê mà không gặp phải kháng cự đáng kể nào. Năm 1932, quân Hồi của Mã Bộ Phương (馬步芳) và quân của Lưu Văn Huy đã đánh bại quân Tây Tạng khi người Tạng cố tiến đánh Thanh Hải. Mã Bộ Phương đã chiếm lại một số huyện thuộc khu vực sẽ là Tây Khang sau đó từ tay quân Tây Tạng.[23][24][25] Quân Tây Tạng bị đẩy lui sang bờ kia của sông Kim Sa.[26][27] Mã Bộ Phương và Lưu Văn Huy đã cảnh báo giới lãnh đạo Tây Tạng rằng chứ nên vượt qua sông Kim Sa một lần nữa.[28] Sau khi người Tạng bị mất thêm rất nhiều lãnh thổ vào tay hai quân phiệt này,[29] một hiệp định đình chiến đã kết thúc cuộc chiến.[30]

Năm 1937, chiến tranh Trung-Nhật bùng phát, Bắc Kinh, Thượng Hải, Nam KinhVũ Hán đều lần lượt rơi vào tay quân Nhật. Chính quyền Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc đã triệt thoái và tái tổ chức ở Trùng Khánh, một thành phố lớn của Tứ Xuyên lúc đó. Ngoài ra, các xí nghiệp công nghiệp và khai khoáng, học hiệu cấp cao và các đoàn thể văn hóa ở các khu vực cũng di chuyển đến Tứ Xuyên, Tứ Xuyên trở thành hậu phương lớn của Trung Quốc. Đồng thời, 3 triệu quân Tứ Xuyên đã xuất Xuyên kháng Nhật, có cống hiến lớn cho cuộc chiến kháng Nhật của Trung Quốc. Quân Nhật gặp khó khăn trong việc nhập Xuyên từ phía đông, khí hậu sương mù của vùng bồn địa đã cản trở tính chính xác trong các vụ ném bom của người Nhật.

Tháng 9 năm 1939, Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm chủ tịch tỉnh Tứ Xuyên, trong cùng tháng, Trùng Khánh trở thành một "viện hạt thị" (tức trực thuộc trực tiếp Hành chính viện), đến tháng sau Tưởng Giới Thạch lại thăng Trùng Khánh làm thủ đô thứ hai ("bồi đô"). Tháng 11 năm 1940, Tưởng Giới Thạch từ chức chủ tịch tỉnh Tứ Xuyên và giao cho Trương Quần kiêm nhiệm. Tháng 12 năm 1940, Trùng Khánh trở thành bồi đô vĩnh viễn, tách hoàn toàn khỏi tỉnh Tứ Xuyên. Sau năm 1946, Đặng Tích và Vương Lăng Cơ (王陵基) lần lượt làm chủ tịch tỉnh Tứ Xuyên. Sau khi chiến tranh Trung-Nhật kết thúc, lại tiếp tục nổ ra Nội chiến Trung Quốc, và khi các thành phố ở phía đông lần lượt rơi vào tay quân Cộng sản, chính quyền Quốc dân lại một lần nữa cố gắng biến Tứ Xuyên thành một thành trì tại lục địa. Tuy nhiên ngày 30 tháng 11 năm 1949, quân Cộng sản chiếm được Trùng Khánh. Cũng trong ngày 10 tháng 12 năm 1949, Tưởng Giới Thạch và con trai là Tưởng Kinh Quốc đã lên máy bay từ Thành Đô đến Đài Loan, từ đó không bao giờ trở lại đại lục. Ngày 11 tháng 12, Tưởng Văn Huy với danh nghĩa chủ tịch tỉnh Tây Khang kiêm quân trưởng đội quân số 24 đã đầu hàng Giải phóng quân. Đến ngày 27 tháng 12 năm 1949, Giải phóng quân chiếm lĩnh Thành Đô.[31] Một tướng Quốc Dân đảng là Vương Thăng (王昇) muốn cùng quân lính ở lại để tiếp tục chiến tranh du kích chống cộng sản tại Tứ Xuyên, song đã bị triệu đến Đài Loan. Nhiều binh lính của ông sau đó vẫn tiếp tục chiến đấu chống cộng theo cách của họ khi dùng Miến Điện làm bàn đạp.[32]

Thời Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

Lễ thông xe tuyến đường sắt Thành-Du (từ Thành Đô đến Trùng Khánh) vào tháng 7 năm 1952Một tòa nhà tại Đô Giang Yển bị hủy hoại trong trận động đất Tứ Xuyên năm 2008

Sau khi kiểm soát được Tứ Xuyên, chính quyền mới đã thành lập các hành thự khu Xuyên Đông, Xuyên Tây, Xuyên Nam, Xuyên Bắc từ năm 1950 song đến năm 1952 thì bãi bỏ và khôi phục lại hệ thống hành chính cấp tỉnh tại Tứ Xuyên, thành lập thành phố Bắc Bội thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Đến năm 1954, Trùng Khánh lại được sáp nhập vào Tứ Xuyên, trở thành một thành phố trực thuộc tỉnh. Đến năm 1955, chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã bãi bỏ tỉnh Tây Khang, vùng đất phía đông sông Kim Sa (thượng du Trường Giang) được nhập vào Tứ Xuyên còn vùng đất phía tây song được sáp nhập vào Tây Tạng.

Trong ba năm xảy ra nạn đói lớn (1959-1961), ngoài vùng đồng bằng Thành Đô và một vài thành thị khác là có tương đối đủ cơm ăn áo mặc, người dân Tứ Xuyên đã phải chịu một nạn đói chưa từng thấy trong lịch sử, đặc biệt là ở vùng đồi núi Xuyên Đông có dân đông và ít đất canh tác. Tổng số người chết không tự nhiên ở Tứ Xuyên là 9,4 triệu người, đứng đầu về số lượng; con số này chiếm 13,07% so với dân số tỉnh trước nạn đói (71,915 triệu), tỷ lệ này cao thứ hai chỉ sau An Huy. Nạn đói nghiêm trọng nhất là tại Đạt huyện và Trùng Khánh, số người chết đói là 6,42 triệu người, chiếm 37% tổng dân số Đạt huyện và Trùng Khánh.[33] Nạn đói cũng đã làm tổn hại đến sản xuất công nghiệp và nông nghiệp trong tỉnh, ba năm này có thể xem là một bước ngoặt của Tứ Xuyên bởi vì kể từ đó Tứ Xuyên đã không còn là một trong những khu vực phát triển nhất tại Trung Quốc (mà nó nắm giữ tuyệt đại đa số thời gian trong 2000 năm trước đó), và trở thành một tỉnh phát triển tầm trung bình.

Từ năm 1964, tỉnh Tứ Xuyên là một trong các khu vực trọng điểm của Tam tuyến kiến thiết (phát triển công nghiệp trong vùng nội địa tây nam để ứng phó với chiến tranh có thể xảy ra), trong đó Trùng Khánh và Thành Đô là trung tâm. Trùng Khánh là thành phố có lượng người nhập cư lớn nhất trong số các thành phố của Tam tuyến kiến thiết. Năm 1978, khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền, Tứ Xuyên là một trong những tỉnh đầu tiên trải qua thử nghiệm hạn chế đối với các doanh nghiệp kinh tế thị trường.

Từ năm 1955 cho đến năm 1997, Tứ Xuyên là tỉnh đông dân nhất Trung Quốc, tổng dân số của tỉnh đã đạt 99.730.000 người trong cuộc điều tra nhân khẩu năm 1982.[34] Song điều này đã thay đổi vào năm 1997 khi thành phố Trùng Khánh cùng các địa cấp thị Phù Lăng, Vạn Huyện và Kiềm Giang tách khỏi Tứ Xuyên để hình thành nên thành phố Trùng Khánh trực thuộc Trung ương. Đô thị mới này được thành lập trong nỗ lực phát triển kinh tế các khu vực miền Tây của Trung Quốc, cũng như để giải quyết việc tái định cư các cư dân từ các khu vực sẽ nằm trong lòng hồ chứa của dự án đập Tam Hiệp. Năm 1997, khi chia tách, tổng dân số của Trùng Khánh và Tứ Xuyên là 114.720.000 người.[35]

Tháng 5 năm 2008, một trận động đất với cường độ 7,9/8,0 độ richter đã xảy ra cách 79 kilômét (49 dặm) về phía tây bắc của Thành Đô. Theo ước tính chính thức, trận động đất đã khiến 69.188 người thiệt mạng, 374.177 người bị thương và 18.440 người mất tích, tuyệt đại đa số là tại Tứ Xuyên.[36] Tháng 11 năm 2008, chính phủ Trung ương của Trung Quốc đã tuyên bố rằng họ sẽ dành 1 nghìn tỉ NDT (khoảng 146,5 tỉ USD) trong ba năm sau đó để tái thiết các khu vực bị tàn phá do động đất.[37]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tứ_Xuyên http://59.252.131.7:800/cncaweb/info/7253.html;jse... http://61.157.76.150/ldjh/ldjh-content.asp?id=52&l... http://books.google.com.au/books?id=04QiOlNKQGEC http://app1.chinadaily.com.cn/star/2002/0411/cn8-3... http://focus.scol.com.cn/zgsz/20031226/20031226165... http://finance.sina.com.cn/roll/20081113/055525124... http://vietnamese.cri.cn/chinaabc/chapter16/chapte... http://www.sc.gov.cn/scgk1/sq/dl/200905/t20090514_... http://www.sichuan.gov.cn/ http://www.stats.gov.cn/english/statisticaldata/ye...